Thứ Hai, 31 tháng 7, 2017

Vai trò của nữ giới trong giáo lý Phật đà

Thái độ xã hội đối với phụ nữ đã được đánh dấu bởi sự kỳ thị hậu thuẫn bởi thành kiến và ảnh hưởng tôn giáo. Cho nên, kỳ thị phụ nữ chắc chắn là nét chung của tất cả các xã hội. Thành kiến và trở ngại phải đương đầu của người phụ nữ đều tương tự giống nhau tại Phi Châu, Á Châu, Mỹ Châu hay Âu Châu. Ðó là một sự làm cho bất lực đặc biệt mà người phụ nữ phải nếm trải căn bản của nó là thành kiến tôn giáo. Khái niệm về sự bất lực cơ bản của phụ nữ bắt nguồn từ tôn giáo. Ở đây, người phụ nữ được mô tả là người đàn bà quyến rũ, và mọi người luôn được cảnh cáo phải đề phòng họ trong hầu hết các tôn giáo trên thế giới.


Một số thành kiến xã hội căn cứ vào tín ngưỡng bình dân. Theo một số huyền thoại tôn giáo, người đàn ông được giới thiệu là con của Thượng Ðế. Ðiều lạ lùng là người đàn bà không bao giờ được ban cho địa vị tương tự là con gái của Thượng Ðế.


Trong những nhóm tin tưởng có linh hồn, có những người giữ khái niệm là linh hồn chỉ hiện hữu nơi người đàn ông mà không ở nơi phụ nữ. Những ai cho rằng phụ nữ có linh hồn lại không có lòng tin rằng linh hồn của phụ nữ không bao giờ có thể tìm thấy một chỗ trên thiên đàng sau khi chết. Ðó là một số niềm tin lạ lùng cho thấy rõ ràng bản chất của sự kỳ thị phụ nữ lan tràn trên thế giới này.


Phụ nữ được gán cho những đức tính xấu nhất của nhân loại. Họ bị coi như là nguồn gốc của tội lỗi trên thế giới, thậm chí đến nỗi bị quở trách vì những bất hạnh mà người đàn ông phải đương đầu trên thế giới này và cả thế giới bên kia!

Chủ Nhật, 30 tháng 7, 2017

Vương triều Lý và chữ Hán( từ góc nhìn ngữ học xã hội)

Trong các tham số tạo nên giá trị văn hóa Đại Việt giai đoạn Triều Lý (1010-1225) cần phải kể đến nhân tố chữ Hán. Thời điểm chữ Hán được các thế hệ chủ nhân Đại Việt thừa nhận như một hệ thống văn tự chính thức của nhà nước cũng chính vào thời kỳ nhà Lý.
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/20625

Thứ Sáu, 28 tháng 7, 2017

Đạo Phật - một tôn giáo của nụ cười


Đạo Phật là đạo Bồ đề, đạo Giác Ngộ. Thế nên người học Phật, tu Phật là để cầu được giác ngộ. Vậy giác ngộ là gì? Và giác ngộ có “cầu” được không? Xin trả lời: Giác ngộ là biết mình là Phật.
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/55276

Thứ Ba, 25 tháng 7, 2017

M&A và tác động của yếu tố văn hóa

Hoạt động M&A đã bắt đầu trên thế giới từ rất lâu nhưng tỷ lệ thất bại các thương vụ M&A cũng không nhỏ. Là một thị trường mới nổi, hoạt động M&A ở Việt Nam bắt đầu từ năm 2000 và trở nên sôi động trong một vài năm trở lại đây. Tỷ lệ thất bại các thương vụ M&A ở Việt Nam cũng tương đối cao. Một trong những nguyên nhân đáng kể của sự thất bại đó là sự thiếu hòa hợp về văn hóa của hai công ty khác nhau khi thực hiện M&A.
http://repository.vnu.edu.vn/handle/11126/855

Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ truyền 雄王事跡玉譜古傳- Thư tịch Hán Nôm

Văn bản gồm 44 trang, ghi chép sự tích và công trạng 18 đời vua Hùng.
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/53418

Phụng lục các tiết sự thần tế văn 奉籙各節事神祭文

Văn bản 44 trang, tập hợp các bài văn tế thần thành hoàng tại địa phương trong các dịp nguyên đán, trừ tịch, kì phước, kì thọ….
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/53269

Gìn giữa văn hóa trong lễ hội chùa

Đi chùa, lễ hội đầu năm vốn là nét đẹp trong đời sống tâm linh của người Việt. Tuy nhiên ranh giới giữa "văn hóa" và "vô văn hóa" trong đi lễ chùa hiện nay đã bị xóa nhòa bởi những hành động xấu xí của người đi lễ chùa tại chính nơi linh thiêng nhất. Cần có sự thay đổi trong chính nhận thức người đi lễ chùa để có thể giữ được nét đẹp ấy trọn vẹn.

Bài Minh văn chùa Thiên Phúc đời Lý

Bài minh khắc trên chuông chùa Thiên Phúc (Thiên Phúc tự hồng chung minh văn) đời Lý (1109) được tìm thấy trong một sưu tập văn bia Kim văn loại tụ vào năm 1995 trong dịp Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Học viện Viễn đông Pháp hợp tác biên soạn bộ Văn khắc Hán Nôm Việt Nam. Năm 1998, khi xuất bản Tập 1 Từ Bắc thuộc đến thời Lý(1), chúng tôi đã công bố nguyên văn chữ Hán, có chú giải cũng bằng chữ Hán để phục vụ độc giả Hán văn trong và ngoài nước.

Văn hóa quản lý ở phương Đông và phương Tây: những so sánh bước đầu

Bối cảnh thế giới đã thay đổi rất nhiều kể từ sau sự kiện 11-9 ở Mỹ và gần đây là những tiết lộ mới của Wikileak về những phần chìm của hệ thống thế giới, điều này đã dấy lên nhu cầu thiết lập một trật tự thế giới đa cực khi mà không một lực lượng hay giá trị tối cao nào có thể chi phối những nền văn hóa khác vì những mục đích kinh tế và chính trị của mình.
Trong lĩnh vực quản trị nhân sự, hiện có những tranh cãi sôi nổi về những sự xung đột giữa các giá trị truyền thống của văn hóa quản lý phương Tây và những giá trị về tinh thần, “giá trị chia sẻ” từ phần còn lại của thế giới, có hay không, việc giá trị phương Tây đã và đang phủ nhận tầm quan trọng của các nền văn hóa tinh thần trong một thế giới “phẳng” ngày nay. Bằng cách đi sâu vào phân tích “những tẳng băng chìm” của sự vận động xã hội và con người, bài viết sẽ phân tích những khái niệm quản trị nhân sự truyền thống và hiện đại của phương Tây, so sánh những khác biệt giữa mô hình của phương Đông và phương Tây, và nêu ra sự cần thiết cho một cách tiếp cận hài hòa nhằm hoàn thiện những hoạt động quản trị nhân sự ở cả cấp tổ chức doanh nghiệp cũng như quản lý vĩ mô. Bài viết cũng khái quát những cơ sở lý luận từ nhiều học giả trên thế giới, và những ví dụ thực tế từ các quốc gia và doanh nghiệp để trình bày quan điểm của mình. Châu Âu sẽ là đối tượng được tập trung phân tích sâu trong nghiên cứu này.

Cộng sinh văn hóa và giao lưu văn hóa Đông Tây

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/20103

Phòng chống nước mỏ

Đối với các mỏ khai thác khoáng sản cứng thì bục nước, ngập lò, nổ khí mê tan, sập lò là những sự cố gây ra thiệt hại lớn nhất về nhân mạng làm đình trệ hoạt động khai thác trong thời gian dài. Vì vậy việc phòng chống nước trong khai thác mỏ vô cùng quan trọng. Có những mỏ chi phí phòng chống nước chiếm khoảng 43-45% giá thành khai thác như mỏ sắt Thạch Khê tỉnh Hà Tĩnh.
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/18622

Đá Silic


Quá trình phong hoá các đá trầm tích trên mặt đất hay các vật liệu núi lửa trong biển tạo nên phần lớn silit chuyển vào dung dịch. Dung dịch có chứa vài mg silic/l (1) không phải là hiếm gặp. Trong tự nhiên chúng tồn tại ở trạng thái dung dịch keo hoặc dung dịch silicat kiềm. Những dung dịch ấy là nguồn kết tủa vô cơ hoặc sinh hoá thành tạo các đá trầm tích silixit. Nước trên lục địa cũng như nước biển thường chứa nhiều sinh vật trôi nổi có bộ xương silit như Tảo silit (Diatome), Trùng tia (Radiolaria), v.v. sự tích tụ xác của chúng tạo nên các đá silixit nguồn gốc sinh hoá. Các đá trầm tích silixit nguồn gốc vô cơ thường có cấu tạo trứng cá và thành tạo ở lục địa, trong môi trường nước ngọt. Cho đến nay người ta chưa tìm thấy kết tủa silit (vô cơ) ở biển và đại dương. Sự tích tụ silit trong đại dương hiện đại phụ thuộc nhiều yếu tố phức tạp. Khả năng hoà tan của silit trong đới quang hợp thay đổi theo mùa phù hợp với thời kỳ phát triển của Tảo silit [H.1]. Tuy nhiên, trong thời kỳ địa chất xa xưa, sự kết tủa silit vô cơ lại là phương thức chủ yếu. Ở rất nhiều mặt cắt địa chất, người ta thấy có sự cùng tồn tại trầm tích silit với Fe hoặc silit với vôi và những trầm tích ấy thường có liên quan với hoạt động núi lửa ở biển. Trầm tích silit có thể có nguồn gốc vô cơ thuần tuý cũng có thể có nguồn gốc hỗn hợp vô cơ - sinh hoá (gọi chung là silit thuần tuý), một số khác mang tính trung gian giữa silit thuần tuý với các vật liệu vụn khác và có cả những đá là sản phẩm biến đổi của đá silixit nguyên thuỷ. Quá trình thành tạo đá trầm tích silitxit có thể dẫn ra ở hình 2. Thành phần khoáng vật chính của silixit là thạch anh, calcedon, opan. Tỷ lệ 3 thành phần ấy thay đổi theo các loại đá khác nhau. Thông thường, opan chỉ có mặt trong các trầm tích trẻ, còn trong các trầm tích từ Mz trở về trước hầu như vắng mặt, trong khi đó các trầm tích càng cổ lượng thạch anh càng tăng, tới lúc hầu như chỉ còn thạch anh và một phần calcedon. Ngoài những khoáng vật nhóm silit, còn gặp nhiều khoáng vật khác như sét, carbonat, glauconit (thường thấy đi cùng opan), các khoáng vật chứa sắt và mangan, các mảnh đá vụn, than và bitum. Một thành phần tạo đá quan trọng của trầm tích silit là các hoá đá có bộ xương silit, hay gặp nhất là Tảo silit, Bọt biển, Trùng tia. Thành phần hoá học chủ yếu của silisít là SiO2 và H2O. Trong đá thường có lẫn những thành phần khác nên thành phần hoá học trở nên phức tạp hơn, có chứa CaO, Fe2O3, MgO, v.v. Kiến trúc đặc trưng cho các trầm tích silixit là kiến trúc vô định hình, ẩn tinh, vi tinh, hình sinh vật, vụn sinh vật. Màu sắc của đá phụ thuộc vào thành phần và lượng tạp chất. Có thể có màu đen, nâu, trắng. Đôi khi đá trầm tích silixit trở nên có giá trị kinh tế cao nhờ màu sắc đẹp của đá. Trầm tích silit phân bố khá rộng, chúng có thể thành những tầng độc lập, đôi khi có bề dày đạt hàng trăm mét, nhưng phổ biến hơn là loại kết hạch trong đá vôi hoặc trong các đá khác.
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19156

Chữ hiếu - xưa & nay

Một nhà sư đã từng nói với tôi rằng “Chữ "hiếu" trong cuộc đời này rộng lắm! Nó không đơn thuần là hiếu kính với cha mẹ bằng tiền tài, vật chất hay phải luôn luôn ở bên chăm nom, phụng dưỡng. Mà đôi khi là sự hy sinh thầm lặng để được thấy nụ cười hạnh phúc, an lạc của mẹ cha… hay đơn giản là những bữa cơm sum vầy trong sự yêu thương, hòa thuận.

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/55263

Thứ Hai, 24 tháng 7, 2017

Dư âm Vesak 2008

Dư âm Vesak 2008
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/55227
Kết quả hình ảnh cho Vesak 2008
Title: Dư âm Vesak 2008
Authors: Hương Nhi
Keywords: Vesak;Phật giáo
Issue Date: 2012
Publisher: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
Description: Tạp chí nghiên cứu Phật học. Số 3. Năm 2012. TNS07712
URI: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/55227
Appears in Collections:Nghiên cứu Phật học và Phật hoàng Trần Nhân Tông (LIC)

Trần Nhân Tông với cảm hứng mùa xuân

Trần Nhân Tông với cảm hứng mùa xuân
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/53968
Hình ảnh có liên quan
Title: Trần Nhân Tông với cảm hứng mùa xuân
Authors: Nguyễn Công Lý
Keywords: Trần Nhân Tông;Phật giáo
Issue Date: 2008
Publisher: Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
Description: Tạp chí nghiên cứu phật học số tháng 1/2009 ; 4 tr. ; TNS08693
URI: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/53968
Appears in Collections:Nghiên cứu Phật học và Phật hoàng Trần Nhân Tông (LIC)

Làm phim về Phật hoàng Trần Nhân Tông để làm bật dậy hào khí Đông A

Làm phim về Phật hoàng Trần Nhân Tông để làm bật dậy hào khí Đông A
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/53815

Kết quả hình ảnh cho hào khí Đông A
Title: Làm phim về Phật hoàng Trần Nhân Tông để làm bật dậy hào khí Đông A
Authors: Hà, Quang Đức
Keywords: Phật hoàng Trần Nhân Tông;Phật giáo
Issue Date: 2016
Publisher: Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
Description: Tạp chí nghiên cứu phật học số tháng 5/2016 ; 2 tr. ; TNS08632
URI: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/53815
Appears in Collections:Nghiên cứu Phật học và Phật hoàng Trần Nhân Tông (LIC)

Nhận dạng một số ngôn ngữ tự nhiên

Nhận dạng một số ngôn ngữ tự nhiên
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/42411
Kết quả hình ảnh cho Nhận dạng một số ngôn ngữ tự nhiên
Title: Nhận dạng một số ngôn ngữ tự nhiên : Luận văn ThS. Công nghệ thông tin: 1.01.10
Authors: Hồ, Văn Canh, Người hướng dẫn
Trần, Bá Ánh
Keywords: Công nghệ thông tin;Ngôn ngữ tự nhiên;Nhận dạng ngôn ngữ;Thống kê toán học
Issue Date: 2007
Publisher: ĐHCN
Abstract: 81 tr. + CD-ROM
Tổng quan các hướng nghiên cứu hiện nay về nhận dạng: mô hình, bản chất của quá trình nhận dạng, nhận dạng dựa trên phân hoạch không gian, nhận dạng theo cấu trúc, nhận dạng theo mạng nơ ron, không gian biểu diễn, không gian diễn dịch...Trình bày vai trò c (...)
Electronic Resources
Luận văn ThS. Công nghệ thông tin -- Trường Đại học Công nghệ. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007
URI: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/42411
Appears in Collections:UET - Master Theses

A new guaianolide fromArtemisia roxburghiana

A new guaianolide fromArtemisia roxburghiana
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/28262
Kết quả hình ảnh cho A new guaianolide from Artemisia roxburghiana
Title: A new guaianolide fromArtemisia roxburghiana
Authors: Phan, Minh Giang
Tran, Thi Thanh Nhan
Phan, Tong Son
Matsunami, Katsuyoshi
Otsuka, Hideaki
Keywords: Artemisia roxburghiana;Guaianolide;Sesquiterpene lactone;Asteraceae
Issue Date: 2013
Publisher: H. : ĐHQGHN
Abstract: A new member of 5aH,6bH,7aH,11aH-guaian-12,6a-olides, 11-epi-8a-hydroxyar-borescin, together with a mixture of (24R)- and (24S)-cycloart-25-en-3b,24-diols, palmitic acid and 1-octacosanol were isolated from the leaves of Artemisia roxburghiana Bess. (Asteraceae) of Vietnam. Their structures were determined on the basis of spectroscopic methods
Description: Natural Product Research 27(20), pp. 1856-1858
URI: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/28262
Appears in Collections:Bài báo của ĐHQGHN trong Scopus

Thứ Năm, 20 tháng 7, 2017

Stress trong công việc của giáo viên mầm non hiện nay : Luận văn ThS. Tâm lý học:

Xây dựng cơ sở lý luận về stress và stress trong công việc của giáo viên mầm non. Tìm hiểu mức độ stress của giáo viên mầm non quận Cầu Giấy. Tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng stress của giáo viên mầm non hiện nay. Đề xuất kiến nghị nhằm đưa ra những biện pháp giúp giáo viên giảm thiểu tối đa sự ảnh hưởng của stress tới công việc.


http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/36437

Hoạt động của UNICEF tại Việt Nam : Luận văn ThS. Quan hệ Quốc tế

Chương 1: Giới thiệu về lịch sử hình thành, tôn chỉ mục đích cũng như cơ cấu tổ chức của UNICEF; Nêu lên nội dung chính của các giai đoạn hợp tác giữa UNICEF và Chính phủ Việt Nam từ khi bắt đầu thiết lập mối quan hệ đến nay. Chương 2: Nêu lên các hoạt động và kết quả của các hoạt động của UNICEF tại Việt Nam tập trung vào thập niên đầu của thế kỷ 21. Các hoạt động tập trung vào 3 lĩnh vực: y tế, chăm sóc và bảo vệ bà mẹ, trẻ em; lĩnh vực giáo dục và lĩnh vực xây dựng kế hoạch, chính sách, xã hội. Chương 3: Đánh giá chung các kết quả đạt được từ những chương trình hoạt động của UNICEF và triển vọng hợp tác giữa UNICEF và Chính phủ Việt Nam.

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/36581

VẤN ĐỀ KHỦNG BỐ QUỐC TẾ TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ VIỆT NAM HIỆN NAM


Bám sát trục nghiên cứu được đề tài định hướng, từ cơ sở lý luận báo chí học, Luận văn đã phân tích, tổng hợp, luận giải và xây dựng được cơ sở lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đó là vai trò, mối quan hệ của báo điện tử với vấn đề khủng bố quốc tế.
Trên cơ sở những vấn đề lý luận đã xây dựng, Luận văn đã khảo sát, đánh giá thực trạng thông tin khủng bố quốc tế trên báo điện tử thông qua việc khảo sát 03 tờ báo đại diện (VnExpress, Tuoitre và Vietnamnet), chỉ rõ ưu nhược điểm, đặc biệt là nguyên nhân của nhược điểm; cùng với việc phỏng vấn sâu các phóng viên, chuyên gia, làm căn cứ cho việc đề xuất, giải pháp khắc phục nhược điểm.
Từ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đã nghiên cứu, khảo sát, Luận văn đưa ra những đề xuất, kiến nghị cụ thể đối với cơ quan chức năng và cơ quan báo chí nhằm nâng cao chất lượng thông tin về khủng bố quốc tế trong thời gian tới. Cơ quan chức năng cần thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm, chủ động, tích cực trong việc định hướng thông tin báo chí; Hợp tác chặt chẽ, phát huy hiệu quả của các cơ quan báo chí quốc gia; Nâng cao năng lực đội ngũ phóng viên, nhà báo chuyên trách; Đa dạng hóa nội dung, cải tiến hình thức chuyển tải… góp phần giúp cho báo chí nói chung, báo điện tử nói riêng thực hiện tốt hơn vai trò, sứ mệnh của mình trước những vấn đề liên quan kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở nước ta thời kỳ đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập, phát triển.

Chính sách khoa học và công nghệ của Mỹ dưới thời Tổng thống Bill Clinton (1993-2001)

Luận văn đã làm rõ bối cảnh và những tác nhân thúc đẩy sự thay đổi chính sách KH&CN từ thời Tổng thống G.H.W Bush (cha) đến thời Tổng thống Bill Clinton. Luận văn đã phân tích và làm rõ nội dung chính sách KH&CN dưới thời Tổng thống Bill Clinton từ năm 1993-2001.

- Tác giả luận văn đưa ra những nhận xét, đánh giá về tác động của chính sách KH&CN đối với sự phát triển kinh tế, xã hội Hoa Kỳ. Trong hai nhiệm kỳ của Tổng thống Bill Clinton (1993-2001), Hoa Kỳ đã tiến hành những thay đổi chiến lược phát triển, trong đó nổi bật là sự điều chỉnh trong chính sách khoa học và công nghệ. Những sáng chế, công nghệ mới ra đời đã tạo ra nguồn lực to lớn và việc làm chủ các công nghệ này có thể xem là có ý nghĩa quyết định đối với vị thế siêu cường, vượt trội của Hoa Kỳ. Mặt khác, nước Mỹ bước vào thời kỳ tăng trưởng dài, mở ra xu thế phát triển mới cho nền kinh tế Hoa Kỳ và thế giới trong thập niên 1990 và những thập niên đầu thế kỉ XXI.

Thông tin vụ án trên các ấn phẩm của báo pháp luật Việt Nam

Luận văn đã phân tích, tổng hợp, luận giải, xây dựng được cơ sở lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu là cách thức, ý nghĩa của việc thông tin vụ án trên các ấn phẩm Báo Pháp luật Việt Nam – một phạm vi đề tài hết sức quan trọng trong công cuộc tuyên truyền, định hướng, giáo dục và tuân thủ hệ thống pháp chế  nước.


Trên cơ sở những vấn đề lý luận đã xây dựng, Luận văn đã khảo sát, đánh giá thực trạng thông tin về vụ án trên các ấn phẩm của Báo Pháp luật Việt Nam, qua đó đưa ra khuyến nghị phát triển nội dung dựa trên khảo sát 8/10 ấn phẩm có đăng tải thông tin vụ án của Báo Pháp luật Việt Nam gồm có: Pháp luật Việt Nam, Pháp luật và thời đại, Câu chuyện pháp luật, Xa lộ pháp luật, Pháp luật 4 phương, Chuyên đề Pháp luật, Báo Pháp luật online và Báo Pháp luật plus.… chỉ rõ ưu nhược điểm, đặc biệt là nguyên nhân của nhược điểm; cùng với việc khảo sát ý kiến phản hồi của công chúng và phỏng vấn sâu các nhà báo, làm căn cứ cho việc đề xuất, giải pháp khắc phục nhược điểm.

Thứ Tư, 19 tháng 7, 2017

Mica

Các khoáng vật thuộc nhóm mica có sự dao động đáng kể về các tính chất hóa học và vật lý, nhưng tất cả chúng đều có dạng tấm mỏng điển hình và cát khai hoàn toàn theo hình đôi mặt do cấu trúc phân lớp đặc trưng của chúng. Tất cả các khoáng vật mica đều có dấu quang học âm và có phương quang học α gần như vuông góc với phương cát khai hoàn toàn của chúng. Những mica phổ biến nhất là muscovit (hay mica trắng), mica loạt phlogopit-biotit (mica nâu hoặc đen), paragonit, glauconit, lepidolit (mica lithi) và zinwaldit, trong đó muscovit, phlogopit và lepidolit là có giá trị kinh tế nhất định.

Kim cương

Kim cương lần đầu tiên được tìm thấy ở Ấn Độ hơn 4000 năm trước đây. Đó là những viên đá quý có vẻ đẹp óng ánh kỳ diệu trộn lẫn trong cát và sỏi ẩn dưới lớp phù sa ở lòng sông. Tên gọi kim cương trong nhiều ngôn ngữ Châu Âu có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ – adamas (αδάμας có nghĩa là “không thể phá hủy”). Trong tiếng Việt chữ “kim cương” có gốc Hán-Việt (金剛), có nghĩa là “kim loại cứng”. Kim cương là một loại đã được sưu tầm và sử dụng trong những biểu tượng tôn giáo của người Ấn Độ cổ cách đây ít nhất 2.500 năm. Hiện nay khoảng 49% kim cương được khai thác ở Trung Phi và Nam Phi, một số lượng lớn kim cương cũng được phát hiện và khai thác ở Canada, Ấn Độ, Nga, Brazil, Úc.

Thạch anh


Thạch anh có công thức hóa học SiO2, là khoáng vật thuộc nhóm silicat khung, loại khoáng vật phổ biến thứ hai trong vỏ lục địa của Trái Đất (sau felspat). Hình thái tinh thể đa dạng với hơn 500 kiểu khác nhau, có thể giả lập phương, chóp nón hai đầu hoặc chóp nón một đầu dạng búp măng, hay hình kim, v.v... Dạng tinh thể phổ biến nhất là hình trụ sáu phương có hai đầu là hình chóp nón sáu mặt [H. 1]. Kích thước của tinh thể biến thiên rất lớn, từ những hạt rất nhỏ đến các tinh thể dài tới vài mét và nặng vài chục tấn. Rất phổ biến song tinh dạng thâm nhập và song tinh tiếp xúc.

Hóa thạch Bào tử - phấn hoa

Bào tử và phấn hoa là cơ quan sinh sản của thực vật. Phấn hoa thường dùng để chỉ cơ quan sinh sản của thực vật hạt trần và hạt kín còn bào tử là cơ quan sinh sản của các dạng thực vật khác bao gồm rêu, thạch tùng và dương xỉ. Tuy chức năng sinh sản của bào tử, phấn hoa là khác nhau nhưng chúng đều có đặc điểm chung là cần phải được phát tán và vận chuyển đến một nơi nhất định để nảy mầm. Chính vì đều cần được phát tán để thực hiện chức năng sinh sản nên đặc điểm của bào tử, phấn hoa có nhiều điểm tương đồng. Chúng có kích thước tương tự nhau, thường dao động trong khoảng 20 đến 40 µm.

Vàng


Vàng tự sinh vừa là nguyên tố, vừa là một khoáng vật, nó được con người đặc biệt ưa chuộng do có màu sắc đẹp, không bị xỉn và nhiều tính chất đặc trưng khác nữa, được sử dụng không những trong mỹ nghệ, trang sức mà còn cả trong những công nghệ cao cấp như công nghiệp điện tử và nhiều lĩnh vực khác, v.v... Chính sự quý hiếm, công dụng hữu ích và độ bền vững của vàng làm cho nó luôn luôn có giá trị rất cao.

Thứ Ba, 18 tháng 7, 2017

Hóa thạch Linh trưởng và Người

Loài người hiện đại có tên khoa học là Homo sapiens thuộc họ Hominidae của bộ Linh trưởng (Primates). Quá trình tiến hóa đã trải qua một chặng đường dài từ cuối Miocen đến Đệ Tứ để xuất hiện loài Người hiện đại (Homo sapiens). Quá trình đó bắt đầu từ những Khỉ dạng người (Anthropoidea) cách nay 37 triệu năm đến các giống của họ Người (Hominidae) là Ardipithecus, Australopithecus và Homo với loài Homo sapiens. Những phát hiện hoá thạch cho thấy tổ tiên nguyên thủy của họ Người đã xuất hiện sớm nhất ở Châu Phi, sau đó chúng di cư sang Châu Âu và Châu Á. Dạng tiến hóa gần nhất với người hiện đại là người Neanderthales, nhưng có lẽ đó không phải là tổ tiên trực tiếp của người hiện đại mà là một nhánh tiến hóa riêng và đã tuyệt chủng từ cách nay 32 nghìn năm. 

Cuội và cuội kết

Cuội và cuội kết được đặc trưng bởi hình dạng mảnh vụn tròn cạnh. Chúng rất phổ biến trong trầm tích của địa tầng cổ và trầm tích Đệ Tứ. Các mảnh vụn có kích thước thay đổi từ 10 - 100mm. Trong quá trình vận chuyển, phân dị và lắng đọng, trầm tích cuội và cuội kết được phân bố một cách có trật tự theo quy luật càng xa thượng nguồn thì kích thước hạt càng giảm. Vì vậy tuy kích thước các loại đá khác nhau nhưng nguồn gốc, điều kiện thành tạo và ý nghĩa địa chất khá giống nhau.

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/18981

Cát và cát kết

Cát và cát kết có kích thước hạt 1-0,1 mm; chúng được chia ra làm 3 loại sau: - Cát hạt lớn: có kích thước 1-0,5 mm. - Cát hạt vừa: 0,5-0,25 mm. - Cát hạt nhỏ: 0,25-0,1 mm. Đối với đá cát và cát kết quan trọng nhất là các thông tin sau đây: - Thành phần khoáng vật vụn và mảnh đá, gọi tắt là vật liệu vụn tha sinh. - Thành phần nền bao gồm matrix và xi măng hóa học làm nhiệm vụ gắn kết vật liệu vụn. - Tướng trầm tích. - Mối quan hệ giữa cát kết và bối cảnh kiến tạo.

Ngành Thân mềm (Mollusca)


Ở Việt Nam, hóa thạch động vật Thân mềm phần lớn thuộc các lớp Hai mảnh vỏ (Bivalvia) Chân đầu (Cephalopoda) và Chân bụng (Gastropoda), rất hiếm gặp hóa thạch của các lớp Có giáp (Loricata), Chân xẻng (Scaphopoda) và Vỏ nón (Tentaculita). Hóa thạch Hai mảnh vỏ hay còn gọi là Chân rìu (Pelecypoda), thường gặp trong các trầm tích Mesozoi và Kainozoi, trong Paleozoi hiếm gặp hơn. Hóa thạch Chân đầu chủ yếu gặp trong trầm tích Mesozoi, trong Paleozoi gặp một ít trong trầm tích Devon, và đến cuối Mesozoi thì hầu như không còn gặp nữa, chỉ còn lại giống Nautilus còn sống đến nay. Hóa thạch Chân bụng gặp rải rác với số lượng ít ỏi trong đá vôi Carbon-Permi, trong trầm tích Mesozoi và Kainozoi, nên ít ý nghĩa địa tầng. Động vật Thân mềm khá phát triển trong môi trường biển và nước ngọt, ở trên cạn chỉ gặp một số ít Chân bụng. Ở Việt Nam, trong số Thân mềm, các lớp Hai mảnh vỏ và Chân đầu có nhiều giống và loài có ý nghĩa địa tầng trong Trias và Jura. Ngoài ra, sự có mặt của hóa thạch Thân mềm cũng giúp ta xác lập môi trường cổ địa lý của các thể trầm tích, ví dụ như sự có mặt của hóa thạch Chân đầu trong các lớp đá giúp ta khẳng định là các lớp đó hình thành trong môi trường biển. Hay sự có mặt của một số Hai mảnh vỏ và Chân bụng như Unio, Viviparus, v.v… giúp ta khẳng định các lớp chứa chúng thuộc môi trường nước ngọt.

Thực vật Bậc thấp


Thực vật Bậc thấp hay Tản thực vật (Thallophyta) gồm tất cả các ngành tảo hiện đang sống (khoảng 50.000 loài) và hàng nghìn loài hóa thạch. Tảo thường có cơ thể cấu tạo đơn giản, phần lớn chúng là thể đơn bào, sống đơn lẻ hoặc thành tập đoàn, những loài tiến hóa hơn có cơ thể đa bào dạng sợi, dạng bản. Một số loài có cơ thể dạng cây, nhưng mới chỉ có thân giả và lá giả. Phần lớn tảo là thực vật tự dưỡng có khả năng quang hợp nhờ có sắc tố trong thể nhiễm sắc, nhưng cũng có không ít loài là sinh vật dị dưỡng do trong tế bào không có sắc tố. Một số loài tạp dưỡng tức là quang hợp khi có đủ ánh sáng, chuyển sang sống dị dưỡng khi thiếu ánh sáng. Tảo được coi là những thực vật có mặt sớm nhất trên Trái Đất, những đại diện cổ nhất của chúng được phát hiện trong trầm tích Paleoproterozoi hay Neoarkei. Tảo được phân loại dựa trên những đặc điểm hình thái, sắc tố, sản phẩm đồng hóa và một số đặc điểm về cấu trúc của lông roi. Hiện nay số lượng các ngành tảo trong hệ thống phân loại vẫn chưa được thống nhất. Dưới đây giới thiệu một số ngành tảo có ý nghĩa nhất với cổ sinh vật học, đang được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trong phân chia địa tầng, cổ sinh thái và cổ địa lý Kainozoi, trong đó có địa tầng chứa dầu ở Việt Nam.

Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 07

Thông qua việc tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan tới chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh, bao gồm các quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, các biện pháp chế tài, trình tự áp dụng chế tài, thẩm quyền xử lý xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh..., được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành như: Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và các văn bản hướng dẫn thi hành, cùng với thực tế áp dụng chế tài xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam. Luận văn đã góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận pháp luật về kiểm soát và xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh; bản chất, nội dung, đặc điểm của các biện pháp chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh. Đồng thời, Luận văn cũng đưa ra những đánh giá trung thực, khách quan về thực trạng pháp luật và hiệu quả áp dụng các chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, từ đó có những đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về chế tài hạn chế cạnh tranh nói riêng và pháp luật chống hạn chế cạnh tranh nói chung nhằm hướng tới mục tiêu chung là xây dựng và hoàn thiện môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.



http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/52293

Rào cản kỹ thuật trong các nước tham gia hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) và những ảnh hưởng đến hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam : Luận văn ThS. Kinh doanh và quản lý: 60 31 01 06

Hiệp định Hợp tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement- TPP) là một Hiệp định Thương mại tự do nhiều bên, được ký kết với mục tiêu thiết lập một mặt bằng thương mại tự do chung cho các nước khu vực châu Á Thái Bình Dương. Hiệp định lúc đầu do 4 nước tham gia khởi xướng gồm Brunei, Chile, New Zealand và Singapore (hay gọi là P4), được ký kết ngày 3 tháng 6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006.

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/46033

Thứ Hai, 17 tháng 7, 2017

Đầu tư nội bộ ở các Chaebol Hàn Quốc

Chaebol là một mô hình khác của tập đoàn thuộc sở hữu và điều hành bởi một gia đình. Các Chaebol của Hàn Quốc thường mang hình thức của một công ty mẹ và có nhiều công ty con hoạt động để đáp ứng yêu cầu vật tư và dịch vụ của công ty mẹ. Do đó hầu hết các Chủ tịch hiện tại của các Chaebol đã thành công là cha hoặc ông nội của họ. Hơn thế, Cheabol nhận được sự ưu đãi đặc biệt của nhà nước và tồn tại mối quan hệ “thân hữu” giữa Chính phủ với một số doanh nghiệp lớn. Nó có thể tạo ra sức ép để đưa ra những đạo luật có lợi cho công việc kinh doanh của họ.


Hình thức quản lý trong nội bộ các Chaebol là các thành viên trong cùng một dòng tộc kiểm soát và quản lý doanh nghiệp một cách rất tập trung và tập quyền. Đồng thời, mối dây liên kết giữa các nhân vật lãnh đạo Chaebol với chính quyền đã giúp họ hoạt động hiệu quả hơn. Và chính những dàn xếp thường xuyên giữa các Chaebol và Chính phủ Hàn Quốc, nhất là trong lĩnh vực thi hành luật và kiểm soát thuế, đã khiến sinh ra một hệ thống quản lý tài chính bị mua chuộc ở nhiều cấp độ khác nhau, đôi khi đến mức độ nghiêm trọng.

Phúc lợi y tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Bệnh tật là một rủi ro của con người mà trong cuộc đời không ai tránh được. Bệnh tật ảnh hưởng đến sức khỏe người dân, làm suy giảm sức sản xuất của nền kinh tế và thậm chí trờ thành những vấn đề của xã hội. Ngành y tế ra đời để giải quyết vấn đề đó. Sự phát triển của ngành y tế thể hiện sự phát triển của một quốc gia bao gồm sự phát triển kinh tế - xã hội và mức sống người dân. Cơ chế thị trường với hoạt động của cung - cầu để xác định mức giá và số lượng dịch vụ đã nhanh chóng thể hiện sự bất cập trong lĩnh vực y tế. vốn đầu tư cho hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và nguồn nhân lực lớn làm chi phí bệnh viện bị đẩy cao, khiến giá cả cho các dịch vụ y tế cũng cao. Điều này khiến cho rất nhiều người dân với thu nhập thấp sè khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ khám chữa bệnh.
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/43600

Thực trạng và xu hướng Hiệp định thương mại tự do ( FTA) trong khu vực ASEAN

Phân tích xu hướng chính sách FTA (Hiệp định thương mại tự do) của một số quốc gia trong khối ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), và của toàn khối ASEAN như một tổng thể, trong đó sẽ tập trung vào phương thức FTA ASEAN+1. Nghiên cứu các nước ASEAN nói chung song trọng tâm là các nước chủ động và tích cực tham gia xu hướng chính sách FTA của Singapore, Malaysia và Việt Nam. Tìm hiểu những động thái FTA của các quốc gia và toàn khu vực từ năm 1994 đến năm 2010.



Chủ Nhật, 16 tháng 7, 2017

Chùa thầy và sự thể hiện những yếu tố Mật tông

Chùa Thầy (Thiên Phúc Tự), thuộc xã Thụy Khuê, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, từ lâu đã nổi tiếng không phải chỉ ở vẻ đẹp của kiến trúc, danh lam thắng cảnh mà còn bởi những truyền thuyết kỳ ảo, linh thiêng xung quanh thiền sư Từ Đạo Hạnh. Lối tu mang màu sắc huyền bí của dòng thiền Mật Tông cùng với những huyền tích của Từ Đạo Hạnh đã tạo nên những sắc thái riêng biệt của kiến trúc cũng như nghệ thuật tổ chức không gian nơi đây. 


Mật Tông khi truyền vào Việt Nam không còn độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với chân tế, cầu hồn, pháp thuật, yển bùa trị tà ma chữa bệnh…(3). Như vậy, chùa Thầy được coi là một trong những ngôi chùa mang đậm dấu ấn của phái Mật Tông, chủ trương dùng hình tượng cụ thể kết hợp với mật chú, mật ngữ để khai mở trí tuệ và giác ngộ, thường sử dụng các yếu tố: phong thuỷ, nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình, sắp đặt điêu khắc, đồ thờ để tạo hiệu quả thị giác, để người Phật tử tự suy ngẫm đi đến giác ngộ. Tất cả những yếu tố này được qui gọn trong bốn pháp Mạn Trà la bao gồm: "Đại Mạn Trà la, Tam muội gia Mạn Trà la, Pháp Mạn Trà la, Yến Ma Mạn Trà la”

Những di vật đá có niên đại thời Hậu Lê ở một số ngôi chùa thuộc thiền phái Trúc Lâm

Đạo Phật được truyền vào Việt Nam tính đến nay đã được ngót ngàn năm. Thiền phái Trúc Lâm do Trần Nhân Tông khởi xướng, được hình thành vào cuối thế kỷ XIII. Những ngôi chùa thuộc thiền phái Trúc Lâm được đề cập trong bài viết này chủ yếu có nguồn gốc từ thời Trần. Dấu hiệu nhận biết các ngôi chùa này là ở nhà Tổ thường có tượng thờ của cả ba vị sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang, hoặc tượng thờ của một trong ba vị ấy. Những bia đá thời Hậu Lê còn lại ở một số ngôi chùa này đã mang lại cho các nhà nghiên cứu nhiều thông tin bổ ích góp phần tìm hiểu nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như: lịch sử, địa lý, lịch sử trùng tu chùa, làm mới và tô lại tượng Phật, tên gọi của chùa qua các thời kỳ lịch sử. Đây là những di vật rất có giá trị cần phải được giữ gìn, bảo quản như những báu vật của đất nước.